Mục tiêu chương:
MT1- Hiểu được tại sao
các nước thương mại lẫn nhau
MT2 - Hiểu được sự khác
biệt giữa các học thuyết thương mại
MT3 - Biết được tại sao
1 hệ thống thương mại tự do sẽ giúp các nước gia tăng lợi ích hơn
MT4 - Nhận ra được hàm ý
của các học thuyết đối với thực tiễn kinh doanh
MT5 - Phân biệt 2 loại
đầu tư quốc tế
MT6 - Hiểu được các khái
niệm liên quan đến FDI
MT7 - Giải thích được
các vấn đề của FDI và các học thuyết liên quan
MT8 - Đánh giá được ưu
& nhược điểm của FDI với nước xuất FDI và nước nhận FDI
I. “ Tự do thương mại”(free trade)?
I. “ Tự do thương mại”(free trade)?
Là 1 người dân Việt Nam, các bạn có bao giờ tự hỏi tại
sao chúng ta sử dụng quá nhiều hàng hóa nhập khẩu từ nước khác ví dụ như: mỹ phẩm,
dược phẩm, thực phẩm, quần áo, phân bón, hóa chất…?
Câu trả lời có thể là do trình độ khoa học
kỹ thuật của chúng ta chưa đủ để có thể sản xuất ra hàng hóa có chất lượng tốt.
Còn yếu tố nào khác không?
Nhìn xa hơn ra 1 thị trường khác lớn và phức tạp hơn, ví dụ như thị trường Mỹ, nhiều công ty ở Mỹ
có thể sản xuất được quần áo chất lượng tốt nhưng tại sao người tiêu dùng Mỹ lại
mặc quần áo sản xuất ở Trung Quốc, Việt Nam hay Ấn Độ? Tại sao hãng xe hơi Ford
lại lắp ráp xe hơi cho thị trường Mỹ tại Mehico trong khi đó hai hãng xe khác
là BMW (Đức) và Nissan (Nhật) lại lắp ráp xe hơi cho thị trường Mỹ ngay tại Mỹ?
Những câu hỏi trên liên quan đến những vấn đề của
thương mại và những nhà kinh tế học đã cố gắng trong nhiều năm để xây dựng nên
những lý thuyết để giải thích cho những vấn đề thương mại này.
Đầu tiên, chúng ta xem xét định nghĩa “Tự do thương mại”(free trade). Tự do
thương mại đề cập đến một hình ảnh về thương mại mà ở đó chính phủ không gây ảnh
hưởng hoặc tạo sức ép thông qua các chính sách như thuế, hạn ngạch nhằm hạn chế
sự trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ với một nước khác.
Từ nhiều thế kỷ trước, các nhà kinh tế học
đã tranh luận nhiều về giá trị của tự do thương mại. Bài giảng chương 2 sẽ bắt
đầu với lý thuyết về chủ nghĩa trọng thương. Một lý thuyết của thế kỷ thứ 16,
17 khuyến khích các quốc gia gia tăng
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Sau đó, chúng ta sẽ thảo luận các học
thuyết được đề xuất bởi Adam Smith và David Ricardo, những người khuyến khích
thương mại tự do; chính phủ phải để cho thị trường tự nó hoạt động, chính phủ
không được can thiệp bằng các chính sách thuế hay hạn ngạch HH&DV gây ảnh
hưởng đến quá trình mua, bán của người dân nước này với 1 nước khác.
Smith và Ricardo đã đưa ra ý tưởng thương mại quốc tế cho phép
1 quốc gia chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu 1 sản phẩm nào đó mà nó mang lại
hiệu quả sản xuất nhất đồng thời nhập khẩu
các sản phẩm mà nó được sản xuất hiệu quả ở các nước khác.
Thuyết của Smith và Ricardo sau đó được
mở rộng, bổ sung bởi Eli Heckscher và Bertil Ohlin
Chúng ta chắc chắn sẽ không cần bất kỳ
lý thuyết nào để giải thích tại sao tại sao A- rập - xê - út xuất khẩu dầu thô,
Ghana xuất khẩu cacao, và Braxin xuất khẩu cà phê. Nhưng sẽ khó khăn hơn khi giải
thích tại sao Thụy Sĩ lại xuất khẩu hàng đầu thế giới về đồng hồ, thiết bị khoa
học kỹ thuật, nữ trang cao cấp hay Nhật lại xuất khẩu ô tô, hàng điện tử gia dụng…
Ray Vernon – người đề xuất lý thuyết về
vòng đời sản phẩm – đề cập đến việc sản xuất 1 sản phẩm nào đó trong 1 giai đoạn
sẽ giúp chúng ta giải thích được một số vấn đề.
Paul Krugman cũng giúp được chúng ta với
lý thuyết mới về thương mại (new trade theory). Ông ta cho rằng, ở 1 vài ngành
công nghiệp, thị trường thế giới chỉ hỗ trợ cho 1 vài doanh nghiệp mà những DN
này đã xây dựng được vị thế cạnh tranh từ rất sớm. Ví dụ điển hình là Beoing và
Airbus, trên thế giới này dường như chỉ có hai công ty hoạt động trong lĩnh vực
này, rất khó để có thể có kẻ thứ 3 xâm nhập.
Cuối cùng, Michael Porter đã mở rộng lý thuyết của Krugman thành thuyết lợi thế
cạnh tranh quốc gia. Ông cho rằng khả năng 1 quốc gia thành công trong
1 vài ngành công nghiệp nhất định không chỉ phụ thuộc vào yếu tố nguồn lực mà
còn phụ thuộc yếu tố khác như cầu nội
địa và cạnh tranh nội địa (domestic demand and domestic rivalry)
Các nước giao thương với nhau thì sẽ
mang lại lợi ích cho nhau. Như vậy thì chính
phủ đóng vai trò gì trong lý thuyết thương mại?
Nó tùy thuộc cách tiếp cận của từng quốc
gia, từng chính phủ của quốc gia đó.
Những người theo chủ nghĩa trọng thương
(Mercantilism) cho rằng chính phủ sẽ can thiệp thương mại bằng các chính sách
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Trong khi đó, Smith, Ricardo và
Heckscher-Ohlin lại cho rằng chính phủ nên đứng ngoài, không nên can thiệp vào
thương mại và thị trường.
Lý thuyết thương mại mới và thuyết của Porter lại đề
xuất sự can thiệp có cân nhắc của chính phủ vào thị trường và thương mại để hỗ
trợ cho 1 số ngành công nghiệp nhất định nào đó.
II.
Sự
khác biệt giữa các học thuyết thương mại
Phần tổng quan vừa giới thiệu cho các bạn các lý
thuyết một cách sơ lược. Bây giờ chúng ta sẽ đi sâu hơn vào nó. Bắt đầu là thuyết về chủ nghĩa trọng thương.
Đứng đằng sau ý tưởng chính của thuyết
này đến từ triết lý của các nhà trọng thương vào khoảng giữa thế kỷ 16, thời điểm
mà vàng và bạc được xem như là tài sản cần thiết, nguồn lực quí báu của 1 quốc
gia.
Với ý tưởng này, 1 quốc gia sẽ quan tâm
đến việc thu về nhiều nhất vàng bạc thông qua việc khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
Câu
hỏi đặt ra là: làm sao để các quốc gia thực hiện được điều này?
Các QG sẽ giới hạn nhập khẩu HH thông
qua hàng rào thuế và hạn ngạch, và khuyến khích xuất khẩu thông qua chính sách
trợ giá.
Lỗ hỏng của triết lý này nằm ở chỗ đây
là một trò chơi có tổng bằng 0 (zero-sum game). 1 quốc gia chỉ có thể đạt
tối đa hóa mục tiêu xuất khẩu bằng cách hạn chế tối thiểu nhập khẩu, điều này dẫn
đến kết quả là nước xuất sẽ ngày càng giữ nhiều vàng bạc, nước nhập sẽ ngày
càng mất nhiều vàng bạc. Một khi quốc gia ngày càng mất nhiều của cải, nó sẽ bị
suy yếu và lệ thuộc quốc gia khác.
Thuyết lợi thế tuyệt đối (absolute advantage) – Adam Smith?
Adam Smith, trong cuốn sách cực kỳ nổi
tiếng của ông năm 1776 đã cho rẳng tự do thương mại, không có sự can thiệp của
chính phủ sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia nếu mỗi quốc gia chỉ sản
xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà nó sản xuất hiệu quả nhất. Đây chính là lợi
thế tuyệt đối (absolute advantage). Smith cho rằng, nếu các quốc gia tập trung
vào sản xuất những sản phẩm mà nó có lợi thế tuyệt đối thì nên xuất khẩu những
mặt hàng này sang nước khác và sau đó nhập những hàng hóa là lợi thế tuyệt đối
của những nước đó.
Ví dụ:
Chúng ta giả định có hai nước , Việt Nam
và Nhật, cả hai nước đều có 200 đơn vị nguồn lực để sản xuất gạo hoặc xe máy.
Việt Nam mất 10 đơn vị nguồn lực để làm ra 1 tấn gạo, 20 đơn vị nguồn lực để
làm ra 1 chiếc xe máy. Với 200 đơn vị nguồn lực, VN có thể sản xuất 10 tấn gạo
hoặc 10 chiếc xe máy. Hoặc VN có thể cân nhắc để có thể vừa sản xuất gạo vừa sản
xuất xe máy.
Nhật thì sao? Để sản xuất ra 1 tấn gạo,
Nhật phải mất 40 đơn vị nguồn lực, nhưng sản xuất 1 chiếc xe máy Nhật chỉ tốn 5
đơn vị nguồn lực. Sự lựa chọn trong trường hợp của Nhật là thứ nhất: sản xuất 5
tấn gạo hoặc 40 chiếc xe máy hoặc phân bố nguồn lực để vừa sản xuất gạo và cả
xe máy.
Thông tin cung cấp cho chúng ta thấy được
rằng VN có lợi thế sản xuất về gạo – nếu tập trung vào sản xuất gạo thì hiệu quả
sẽ tăng cao hơn so với Nhật. Nhật có lợi
thế sản xuất xe máy, do đó hiệu quả sản xuất của Nhật sẽ tăng cao hơn nếu Nhật
tập trung vào xe máy.
Như vậy, ta có thể dễ dàng tính được, với
200 đơn vị nguồn lực VN sản xuất được 10 tấn gạo và 5 xe máy, Nhật sản xuất được
2,5 tấn gạo và 20 xe máy. Điều gì xảy ra
nếu VN và Nhật không trao đổi, mua bán HH với nhau?
Nếu chuyên môn hóa sản xuất, theo Smith,
VN sẽ chỉ sản xuất mặt hàng thế mạnh, Nhật cũng tương tự. Kết quả là VN sản xuất
được 20 tấn gạo, Nhật sản xuất 40 xe máy. Với giả định là 5 xe máy tương đương 2,5 tấn gạo, VN và Nhật
có thể trao đổi hàng hóa lẫn nhau. VN có thể lấy từ Nhật 5 chiếc xe máy để giao
lại 2,5 tấn gạo.
Sau
quá trình thương mại này, hai nước được lợi ích gì không?
VN còn 17,5 tấn gao và 5 xe máy. Nhật có
2,5 tấn gạo và 35 xe máy. Rõ ràng sản lượng gạo ở VN và xe máy ở Nhật cao hơn
so với trường hợp tự sản xuất. Cả hai nước đều có lợi.
Thuyết Lợi thế so sánh của David
Ricardo?
Nhưng 1 quốc gia không bao giờ chỉ sản
xuất 1 hoặc 2 loại hàng hóa. Chính vì vậy mà năm 1817, David Ricardo đã đặt ra
những câu hỏi:
Điều gì sẽ xảy ra nếu 1 quốc gia có lợi
thế so sánh trong sản xuất với tất cả các sản phẩm?
Lúc đó liệu thương mại có còn mang lại lợi
ích?
Những câu hỏi này đã thúc đẩy ông cho ra
đời lý thuyết về lợi thế so sánh. Ricardo cho rằng hoàn toàn hợp lý khi 1 quốc
gia chuyên môn hóa sản xuất những loại hàng hóa mà nước đó sản xuất hiệu quả nhất,
và mua hàng hóa mà nó sản xuất kém hiệu quả từ nước khác, thậm chí còn có thể
nhập hàng hóa từ những nước sản xuất hàng hóa hiệu quả hơn
Ví dụ:
Giả sử chúng ta xem xét 2 nước Ghana và
Hàn Quốc. Ghana có thể sản xuất hiệu quả
vừa cacao và gạo. Ghana mất 10 đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 tấn cacao, 13,3
đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 tấn gạo.
Ghana có thể sản xuất hoàn toàn 20 tấn cacao hoặc 15 tấn gạo. Hàn Quốc mất
40 đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 tấn cacao và 20 đơn vị nguồn lực để sản xuất
1 tấn gạo. Như vậy, Hàn Quốc có thể sản xuất 5 tấn cacao hoặc 10 tấn gạo. Ghana
có lợi thế tuyệt đối hơn Hàn Quốc cả hai sản phẩm.
Vậy tại sao phải thương mại với Hàn Quốc ?
Ricardo cho rằng Ghana vẫn có lợi trong
trường hợp xảy ra thương mại giữa Ghana và Hàn Quốc vì Ghana có lợi thế so sánh
trong sản xuất cacao. Nói cách khác, Ghana có thể sản xuất nhiều cacao và gạo
hơn Hàn Quốc, Ghana có thể sản xuất cacao nhiều hơn 4 lần và gạo nhiều hơn 1,5
lần.
Khi quá trình thương mại diễn ra giữa 2 nước, Ghana
có thể xuất 4 tấn cacao sang Hàn Quốc để đổi lấy 4 tấn gạo (Ghana sử dụng 150
nguồn lực để sản xuất 15 tấn cacao và 3,75 tấn gạo. Hàn Quốc lúc này dồn hết
nguồn lực để sản xuất gạo, HQ sản xuất được 10 tấn). Như vậy, sau khi thương mại
giữa 2 nước xảy ra, Ghana còn 11 tấn cacao và 7,75 tấn gạo. Hàn Quốc được 4 tấn
cacao và 6 tấn gạo. Cả hai nước đều có lợi.
Câu hỏi đặt ra là: Liệu tự do thương mại có luôn luôn tốt?
Câu trả lời là không bởi vì mô hình lợi
thế so sánh có nhiều giả định quá đơn giản và hoàn hảo. Một quốc gia không thể
quyết định đơn giản chuyển từ sản xuất mặt hàng A sang mặt hàng B một cách dễ
dàng vì nó phụ thuộc rất nhiều yếu tố.
Những giả định phi thực tế đó là:
1.
Thế giới chỉ có 2 quốc gia và 2 loại
hàng hóa
2.
Chi phí vận chuyển bằng 0
3.
Giá cả các nguồn lực bằng nhau
4.
Các nguồn lực sản xuất có thể di chuyển
giữa các ngành
5.
Hiệu suất không đổi theo qui mô
6.
Nguồn lực sản xuất không đổi và hiệu quả
sử dụng nguồn lực không đổi
7.
Không có sự tác động của thương mại lên
sự phân phối thu nhập
Thuyết
Heckscher-Ohlin
Eli
Heckscher và Bertil Ohlin mở rộng thuyết của Ricardo, ông cho rằng lợi thế so
sánh của 1 quốc gia bắt nguồn từ sự khác biệt của các yếu tố các nguồn lực của quốc gia đó(factor
endowments)
Hai
ông cho rằng các quốc gia chỉ xuất khẩu những hàng hóa mà hàng hóa đó sản xuất
từ những nguồn lực dồi dào như đất đai, lao động, vốn.
Ngược
lại, các quốc gia chỉ nhập khẩu hàng hóa nào đó khi nó khan hiếm các nguồn lực
để sản xuất ra loại hàng hóa đó.
Vì
vậy, chúng ta có thể giải thích được tai sao Trung Quốc dựa vào nguồn lao động
chi phí thấp để sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có sử dụng lực lượng lao động
này chẳng hạn như dệt may, giày dép...và Mỹ lại nhập khẩu hàng dệt may từ TQ vì
thiếu nguồn lao động giá rẻ.
Câu
hỏi thảo luận: điểm khác biệt trong mô hình thương mại
của H-O và mô hình của Ricardo.
TL:
Mô hình H-O dựa trên yếu tố các nguồn lực khác nhau giữa các quốc gia, trong
khi mô hình R dựa trên khả năng sản xuất khác nhau
Nghịch
lý Leontief
Wassily
Leontief kiểm tra lý thuyết H-O năm 1953 với kỳ vọng rằng Mỹ sẽ xuất khẩu những
hàng hóa được sản xuất dựa trên nguồn vốn dồi dào và nhập khẩu những hàng hóa
được sản xuất dựa trên nguồn lao động.
Tuy
nhiên, ông khám phá ra rằng Mỹ xuất khẩu những hàng hóa sử dụng ít vốn hơn là
những hàng hóa sử dụng nhiều vốn. Kết quả điều tra của ông được biết đến với
tên gọi: Nghịch lý Leontief
Thuyết H-O không thể trả lời hoàn
chỉnh được cho câu hỏi: Tại sao một số sản phẩm từng được sản xuất tại 1 quốc
gia sau đó lại đi nhập khẩu từ các quốc gia khác, đặc biệt từ các quốc gia kém
phát triển hơn?
Trong
một số trường hợp, thuyết “Vòng đời sản phẩm” của Vernon giải thích tốt hơn cho
câu hỏi này.
Năm
1960, Vernon phát triển thuyết vòng đời sản phẩm, ông cho rằng khi sản phẩm đạt
đến giai đoạn trưởng thành, địa điểm sản xuất và địa điểm bán hàng đều thay đổi,
và điều này dẫn đến luồng thương mại giữa các quốc gia cũng thay đổi theo. Nói
cách khác, các sản phẩm đều phải trải qua các giai đoạn của vòng đời, mỗi giai
đoạn nó đều được bán và sản xuất ở những nơi khác nhau.
Những
quan sát của Vernon chủ yêu tập trung vào những hàng hóa được sản xuất bởi các
công ty Mỹ. Ở giai đoạn đầu, các công ty này sản xuất và bán sản phẩm ở thị trường
Mỹ, lý do là các công ty này hiểu thị trường nội địa và các quyết định quản trị
cũng được thực thi dễ dàng hơn. Trong gia đoạn tăng trưởng, nhu cầu của khách
hàng thu nhập cao ở các thị trường phát triển khác cũng bắt đầu hình thành và
các công ty Mỹ bắt đầu xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường đó.
Sau
đó, khi nhu cầu về sản phẩm tăng nhanh ở các thị trường nước ngoài, các nhà sản
xuất nước ngoài bắt đầu sản xuất để đáp ứng nhu cầu. Các nhà sản xuất của Mỹ, sẽ
tham gia vào quá trình này bằng cách xây dựng nhà máy sản xuất ở thị trường nước
ngoài.
Kết quả là xuất khẩu
từ Mỹ sẽ giảm dần. Khi sản phẩm đạt đến giai đoạn trưởng thành ở thị trường Mỹ
và nước ngoài, giá sản phẩm trở thành yếu tố quan trọng. Một vài nhà sản xuất
nước ngoài với chi phí lao động thấp sẽ có lợi thế về giá và các công ty này bắt
đầu xuất khẩu sản phẩm vào thị trường Mỹ suốt giai đoạn này. Cuối cùng, quá
trình sản xuất sẽ dịch chuyển hoàn toàn sang các nước đang phát triển để tận dụng
hoàn toàn lợi thế về lao động giá rẻ, Mỹ trở thành nước nhập khẩu suốt giai đoạn
này
Thuyết vòng đời sản phẩm chỉ đúng trong một vài trường
hợp điển hình ở Mỹ suốt thập niên 60, 70 của thế kỷ trước. Trong giai đoạn toàn
cầu hóa và hội nhập như hiện nay, thuyết PLC không còn khả năng giải thích được
nữa.
Ví dụ như: nhiều sản phẩm được thiết kế
và giới thiệu khắp thế giới bởi các DN Mỹ ngay từ giai đoạn hình thành &
phát triển sản phẩm.
Thuyết
“ Thương mại mới – New trade”
Những nhà nghiên cứu của thập niên 70 đã
tìm kiếm những lý lẽ khác nhau để giải thích cho những hoạt động thương mại
đang xảy ra mà thuyết PLC không thể giải quyết được.
Thuyết thương mại mới, dựa trên quan điểm về quá trình giảm chi phí sản xuất
dựa trên qui mô sản xuất được hình thành. Việc giảm chi phí này cuối cùng được
gọi là kinh tế theo qui mô.
Đối với 1 vài công ty như Microsoft, sản
xuất theo qui mô rất quan trọng để trang trải chi phí phát triển phiên bản
Windows mới cho hàng triệu máy tính.
Nếu không có thương mại, thị trường nhỏ
bé của các quốc gia không thể tiêu thụ nổi lượng hàng hóa được sản xuất hàng loạt
với số lượng lớn của các công ty.
Khi xảy ra thương mại giữa các quốc gia,
thị trường được mở rộng gấp nhiều lần và có thể hấp thụ được lượng hàng hóa sản
xuất theo qui mô. Do đó, thương mại đặc
biệt hữu dụng vì nó cho phép chuyên môn
hóa sản xuất, sản xuất hàng loạt với số lượng lớn hàng hóa với giá cực thấp.
Tuy nhiên, đối với 1 vài ngành công nghiệp,
để đạt lợi ích kinh tế theo qui mô, DN phải nắm được các thị trường chính của
thế giới.
Ví dụ trong ngành sản xuất máy bay, chi
phí để sản xuất 1 máy bay cực cao, vì vậy DN trong lĩnh vực này phải giành lấy
thị trường mục tiêu.
Vai trò của lợi thế người đi đầu (first
mover advantages ): tạo ra rào cản cho các DN cạnh tranh khác muốn tham gia
vào ngành
Chúng ta có thể học được gì từ thuyết
thương mại mới?
Các quốc gia có thể hưởng lợi từ thương
mại ngay cả khi không có sự khác biệt về các nguồn lực hay kỹ thuật công nghệ. Một quốc gia có thể
chiếm ưu thế về xuất khẩu vì nó có những công ty đi đầu trong 1 lĩnh vực nào
đó.
Thuyết TMM mâu thuẫn với thuyết H-O ở điểm
thuyết H-O cho rằng các quốc gia sẽ sản xuất và XK các HH sử dụng
các yếu tố sản xuất dồi dào.
Nhưng thuyết TMM không mâu thuẫn với
thuyết LTSS vì nó xác định được nguồn LTSS.
Vì vậy, các chính phủ sẽ sử dụng thông
tin này để ban hành các chính sách thương mại nuôi dưỡng và bảo vệ các ngành
công nghiệp và các DN có lợi thế là người đi đầu và có lợi thế trong sản xuất
theo qui mô
Thuyết
lợi thế cạnh tranh quốc gia – Mô hình kim cương của M.Porter
Tất cả các học thuyết vừa trình bày đều
giải thích được phần nào đó các hiện tượng của TMQT. Tuy vậy, vẫn còn những câu
hỏi không thể trả lời 1 cách hoàn chỉnh được chẳng hạn như:
Tại
sao một vài quốc gia có những ngành công nghiệp nổi trội hơn những quốc gia
khác? Ví dụ như, tại sao Nhật chiếm vị thế hàng đầu trong lĩnh vực ô tô? Tại
sao Thụy Sĩ luôn đứng đầu trong công nghiệp dược.
Những nghiên cứu của Porter, và đặc biệt
là thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia đã cố gắng giải thích tại sao 1 quốc gia
có thể thành công với 1 ngành công nghiệp nổi trội nào đó.
Porter đã định dạng 4 yếu tố có thể tạo
ra lợi thế cạnh tranh trong 1 ngành công nghiệp. Ông gọi mô hình 4 yếu tố này
là mô hình kim cương về lợi thế cạnh tranh
Yếu
tố đầu tiên, yếu tố các nguồn lực (factor
endowments), đề cập đến các nguồn lực của 1 quốc gia có thể dẫn đến lợi thế
cạnh tranh. Mở rộng hơn so với yếu tố nguồn lực trong thuyết H-O; ở đây
M.Porter đề cập đến các nguồn lực cụ thể như lao động có kỹ năng, cơ sở hạ tầng
là những nguồn lực quan trọng để đạt lợi thế cạnh tranh trong một ngành công
nghiệp đặc biệt. Ông chia các nguồn lực thành 2 nhóm, nhóm nguồn lực cơ bản(tài
nguyên thiên nhiên, khí hậu, địa điểm), nguồn lực cao cấp(lao động có kỹ năng,
cơ sở hạ tầng, kỹ thuật công nghệ)
Yếu
tố thứ hai, ông gọi là các điều kiện về cầu
(demand conditions) – là nhu cầu của người dân trong 1 nước đối với HH&DV của
1 ngành. Porter cho rằng các nhu cầu của người tiêu dùng được thỏa mãn sẽ gây
áp lực đối với các DN phải cố gắng tạo ra lợi thế cạnh tranh
Yếu
tố thứ ba, các ngành công nghiệp liên quan và bổ
trợ(Relating and supporting industries), đề cập đến sự tồn tại hay không
của các nhà cung cấp và ngành công nghiệp liên quan mà những ngành này có đóng
góp cho những ngành khác và những ngành này phải có năng lực cạnh tranh quốc tế.
Yếu
tố cuối cùng - chiến lược của DN, cấu trúc và sự cạnh
tranh (firm strategy, structure, and rivalry) đề cập đến những điều kiện
bên trong 1 quốc gia cụ thể là cách thức quản lý của quốc gia đó với sự hình
thành, tổ chức hoạt động , phát triển của các DN và sự cạnh tranh giữa các DN
bên trong quốc gia đó. Khi sự cạnh tranh này mạnh, các DN chịu áp lực phải sáng
tạo, cải tiến chất lượng, giảm chi phí và đầu tư vào những sản phẩm cao cấp.
III.
Ý
nghĩa của lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia?
Sự thành công của 1 quốc gia trong 1 ngành công nghiệp
là sự kết hợp của 4 yếu tố trong mô hình kim cương của Porter. Ông đề nghị:
Vai trò của chính phủ:
1.
Tác động đến nhu cầu của người dân thông
qua việc ban hành các chính sách liên quan đến chất lượng/tiêu chuẩn sản phẩm.
2.
Tác động đến cạnh tranh giữa các DN thông
qua các qui định, luật chống độc quyền
3. Đưa
ra các chính sách về giáo dục (đào tạo đội ngũ lao động có năng lực) và chính
sách xây dựng cơ sở hạ tầng( hệ thống cầu đường, giao thông đường thủy, bộ,
hàng không…)
Mô hình Porter có thể
được dùng để dự báo các mô hình thương mại ngày nay. Tuy vậy, nó vẫn chưa được
kiểm chứng.
IV. Hàm
ý của học thuyết thương mại đối với nhà quản lý?
3 điểm quan trọng cần nhớ
1.
Vị trí (location): 1 DN phát triển hoạt
động sản xuất phải chọn các quốc gia mà ở đó có điều kiện thuận lợi để quá
trình sản xuất đạt hiệu quả nhất
2.
Người tiên phong (First – mover): lợi thế
của người tiên phong có thể giúp 1 DN thống lĩnh thương mại toàn cầu đối với
1SP (HH/DV nào đó)
3. Chính
sách: Các DN nên khuyến khích các chính sách của chính phủ phải hỗ trợ cho tự
do thương mại; để làm được điều này các DN nên vận động hành lang đế các chính
phủ ban hành các chính sách tác động lên từng thành phần của mô hình kim cương.
V.
Đầu
tư quốc tế
Là hiện tượng di chuyển vốn từ nước này
sang nước khác nhằm mục đích kiếm lợi nhuân
Hai hình thức của đầu tư quốc tế
+
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
+
Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII)*
Foreign direct investment
(FDI):
Khi bạn chạy xe dọc quốc lộ 20 ngang tỉnh
Đồng Nai hoặc đi ngược về hướng Bình Dương, hàng loạt các KCN mọc lên như KCN Amata, KCN Biên Hòa 1, Biên
Hòa 2, KCN Việt Sing, KCN Sóng Thần… Ở các KCN đó hiện diện những công ty lớn
như Nestle, Unilever, P&G …
Đây là những công ty nước ngoài, đầu tư
xây dựng nhà máy sản xuất ở VN. Những công ty này sản xuất ra sản phẩm bán cho
người dân chúng ta và có thể xuất khẩu ra các nước khác.
Như vậy, Đầu tư trực tiếp nước ngoài - Foreign direct
investment(FDI), là hình thức 1 DN đầu tư trực tiếp cho
hoạt động sản xuất và/hoặc tiếp thị SP&DV của nó ở thị trường nước ngoài.
Khi 1 DN thực hiện FDI, nó được gọi là 1
DN đa quốc gia (multinational enterprise ) - MNE.
Có 2 dạng FDI.
Loại
thứ 1: Đầu tư mới hoàn toàn (greenfield investment) liên
quan đến việc thành lập 1 cơ sở hoạt động mới ở nước ngoài. Ví dụ như Nestle,
3M, Bayer...
Loại
thứ 2 của FDI là hình thức mua lại hoặc sáp nhập(acquisition or merger) với 1 công ty
nào đó ở thị trường nước ngoài .
Dòng vốn FDI là lượng vốn FDI được thực hiện trong 1
khoảng thời gian nhất định. Luồng vốn ra của FDI (outflows) là luồng vốn FDI ra
khỏi 1 quốc gia, luồng vốn FDI vào(FDI inflows) là luồng vốn FDI nhập vào 1 đất
nước.
FDI
đến từ đâu?
Sau Chiến tranh TG lần 2, Hoa Kỳ là nước
cung cấp nguồn FDI lớn nhất thế giới, những nước khác đóng vai trò quan trọng
không kém đó là Anh, Hà lan, Pháp, Đức, Nhật.
Từ năm 1998 đến 2010, 6 nước trên cung cấp hơn 60% tổng
lượng FDI toàn thế giới
Câu hỏi thảo luận: hầu hết các DN chọn phương thức đầu tư nào sau đây: đầu tư mới
(greenfield investments) hay mua lại(acquisition)?
Câu trả lời theo tổng kết của Hill: Hầu
hết các DN đều chọn hình thức sáp nhập(mergers) và mua lại thay vì đầu tư mới.
Nguyên
nhân:
1) So với đầu tư mới, M&A giúp DN
nhanh chóng xâm nhập thị trường hơn
2) Dễ hơn và ít rủi ro hơn
3) Các DN tin rằng họ có thể gia tăng hiệu
quả HĐKD của đơn vị sáp nhập/ mua lại bằng cách chuyển vốn, công nghệ và kỹ
năng quản lý
Tại
sao các DN lại chọn hình thức đầu tư trực tiếp(FDI) ở 1 quốc gia khác? Tại sao
các DN không chọn hình thức xuất khẩu hoặc ký thỏa thuận cho phép sử dụng công
nghệ ( thường gọi là li – xăng – licensing) khi các DN này muốn bán sản phẩm của
họ tại thị trường nước ngoài?
Để trả lời các câu hỏi trên, các bạn phải
biết những hạn chế của XK và li – xăng.
Xuất khẩu: sản xuất hàng hóa tại 1 nước,
sau đó mang bán sang 1 nước khác. XK bị hạn chế do chi phí vận chuyển và các
rào cản thương mại (thuế nhập khẩu và hạn ngạch)
Li- xăng: hình thức công ty A ký thỏa
thuận cho phép công ty B (ở thị trường nước ngoài) sản xuất và bán sản phẩm với điều kiện công
ty B phải trả lại 1 khoản phí thỏa thuận.
Li- xăng không hấp dẫn các DN vì 3 lý do
chính: 1) dễ bị mất bí quyết công nghệ vào đối thủ cạnh tranh, 2) DN không kiểm
soát được quá trình sản xuất, marketing và chiến lược của đối tác được cấp li –
xăng, 3) Nếu lợi thế cạnh tranh của 1 DN dựa vào quản lý, marketing, khả năng sản
xuất hơn là sự nổi trội về sản phẩm thì li – xăng không hấp dẫn ( ví dụ -
Toyota không thể li – xăng với 1 DN khác vì
văn hóa Toyota chú trọng đến các kỹ năng
Lợi
ích của FDI đối với nước nhận đầu tư(host country)?
Các lợi ích chính của FDI đối với nước
nhận đầu tư là ảnh hưởng đến chuyển giao nguồn lực, việc làm, cán cân thanh
toán, sự cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế
1.
Chuyển
giao nguồn lực: FDI mang lại lợi ích cho nước nhận đầu
tư như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý – điều này giúp quốc gia đó gia tăng tốc
độ tăng trưởng kinh tế
2.
Việc
làm: rõ ràng tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra nhiều việc
làm hơn, đây chính là lợi ích thứ 2
3.
Cán
cân thanh toán: FDI có thể giúp 1 quốc gia cải thiện
cán cân thanh toán thông qua hoạt động kinh doanh của nó( ví dụ như giúp 1 quốc
gia hạn chế nhập khẩu)
4.
Sự
cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế: FDI thông qua hình thức
đầu tư mới hoàn toàn giúp gia tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, hạ giá
thành sản phẩm và cải thiện phúc lợi của người tiêu dùng.
Chi
phí của FDI mang lại với nước nhận đầu tư?
1.
Tác động tiêu cực lên sự cạnh tranh đối
với các DN nội tại nước nhận đầu tư
2.
Ảnh hưởng tiêu cực lên cán cân thanh
toán (ví dụ như các chi nhánh FDI nhập khẩu toàn bộ các nguồn nguyên liệu để sản
xuất)
Tác
động tích cực của FDI đối với nước đầu tư (home country)?
1.
Ảnh hưởng tích cực lên tài khoản vốn vì
lợi nhuận mà các DN FDI tạo ra được chuyển về và 1 phần từ hoạt động nhập khẩu
của chi nhánh DN FDI tại nước nhận đầu tư
2.
Lượng việc làm tăng lên
3.
Học hỏi kinh nghiệm từ thị trường nước
ngoài
Tác
động tiêu cực của FDI đối với nước đầu tư?
1.
Cán cân thanh toán: bị ảnh hưởng ban đầu
do luồng vốn di chuyển ra nước ngoài; bị ảnh hưởng nếu mục đích của FDI chỉ là
phục vụ cho thị trường nội địa ( hoạt động FDI chủ yếu nhắm vào thị trường lao
động giá rẻ bên ngoài)
2.
Việc làm: nếu FDI nhắm vào mục đích thay
thế lực lượng lao động tại nước đầu tư thì nước đầu tư sẽ gia tăng tình trạng
thất nghiệp
Tác
động của chính phủ lên FDI?
Vì FDI mang lại những tác động tích cực
và tiêu cực, do đó các chính phủ phải can thiệp theo cách mà họ cho là có lợi
cho người dân và đất nước.
1.
Chính
sách khuyến khích dòng đầu tư ra nước ngoài:
thông qua các chương trình cho vay đặc biệt nếu các DN đầu tư sang các nước
đang phát triển, ưu đãi về thuế, khuyến khích nước nhận đầu tư tháo gỡ dần các
rào cản…
2.
Chính
sách không khuyến khích dòng đầu tư ra nước ngoài:
qui định về lượng vốn tối đa/ tối thiểu, ưu đãi thuế cho hoạt động kinh doanh
trong nước, cấm đầu tư vào một số quốc gia
3.
Chính
sách thu hút dòng đầu tư vào: mở cửa thị trường, hệ
thống luật pháp chặt chẽ, công bằng, ưu đãi thuế, ưu đãi phí sử dụng đất…
4.
Chính
sách hạn chế dòng đầu tư vào: đối xử không công bằng,
chi phí sử dụng đất cao, thuế cao, cấm đầu tư vào 1 số ngành
Ý
nghĩa của FDI đối với HĐKDQT?
Khi
quyết định mở rộng hoạt động kinh doanh của mình ra thị trường nước ngoài, các
DN cân nhắc: nên chọn các hình thức xâm nhập nào ( XK, Li xăng hay đầu tư trực
tiếp . Mỗi hình thức đều có ưu, nhược khác nhau.
Ngoài
ra, cần chú ý nghiên cứu kỹ các lý thuyết thương mại, các chính sách của các quốc
gia
Biên soạn từ:
Hill
C W L (2011), International Business –
Competing in the Global marketplace 8Ed, New York: Irwin Mc Graw Hill
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét