Mục tiêu chương:
MT1: Nắm bắt được các khái niệm liên quan đến hệ thống chính trị, hệ
thống luật pháp, kinh tế
MT2: Hiểu được các rủi ro trong kinh doanh quốc tế xuất phát từ chế độ
chính trị
MT3: Hiểu được các rủi ro trong kinh doanh quốc tế xuất phát từ hệ thống
pháp luật của 1 quốc gia
MT4: Hiểu được các rủi ro xuất phát từ môi trường kinh tế
MT5:
Vận dụng các giải pháp quản lý rủi ro liên quan đến MT Chính trị - Luật pháp –
Kinh tế vào thực tiễn hoạt động của DN
I. Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một tập hợp các tổ
chức khác nhau, gắn kết/tương tác với nhau tạo nên một chính phủ.
Do đó, hệ thống chính trị của 1 quốc gia là là hệ thống
chính phủ của quốc gia đó.
Có 2 xu hướng phân loại
hệ thống chính trị. Thứ nhất – xu hướng nhấn mạnh vào chủ nghĩa tập thể
(collectivism) hoặc chủ nghĩa cá nhân(individualism). Thứ hai, xu hướng
dân chủ (democratic) hay chuyên chế(totalitarian). Hai xu hướng này thường
tương quan lẫn nhau. Hệ thống tập thể có khuynh hướng chuyên chế và hệ thống cá
nhân có khuynh hướng dân chủ.
Chủ
nghĩa tập thể
(collectivism)
Đề
cập đến hệ thống chính trị mà tư tưởng nhấn mạnh đến những mục đích của tập
thể. Nói cách khác, trong 1 xã hội mang tính tập thể mọi nhu cầu, quan điểm
đều hướng về tập thể hơn là tự do cá nhân. Ngày nay, chủ nghĩa tập thể được
đánh đồng với chủ nghĩa xã hội(xuất phát từ tư tưởng của Karl Marx). Những quốc
gia theo đuổi chủ nghĩa xã hội thường có xu hướng nhà nước phải sở hữu, quản lý
sản xuất, phân phối và trao đổi hàng hóa trong nền kinh tế
Chủ
nghĩa cá nhân (Individualism)
Chủ
nghĩa cá nhân dựa vào 2 giả thuyết mấu chốt:
1. Phải
đảm bảo quyền tự do cá nhân và quyền thể hiện bản thân
2. Con
người được phép theo đuổi những lợi ích cá nhân mà những lợi ích riêng này mang
lại những điều tốt nhất cho xã hội
Đối
với các công ty quốc tế, chủ nghĩa cá nhân và quan điểm kinh tế học về thị trường
tự do là hai yếu tố quan trọng để tạo ra 1 môi trường kinh doanh thuận lợi
Hướng thứ 2 của hệ thống chính trị,
mức độ hệ thống dân chủ hay chuyên chế
Hệ thống chính trị dân chủ
Là
HTCT mà chính phủ thuộc về người dân, được hình thành thông qua bầu cử bởi người
dân. Trong khi đó, HTCT chuyên chế là hệ thống chính trị chỉ do 1 người lãnh đạo
hoặc duy nhất 1 đảng lãnh đạo; những quan điểm đối lập chính trị hoàn toàn bị cấm
trong hệ thống chính trị chuyên chế (độc tài)
HTCT
dân chủ thường liên quan đến chủ nghĩa cá nhân. HTCT chuyên chế thường liên
quan đến chủ nghĩa tập thể.
Tuy
vậy, một số nước như Trung Quốc là 1 trong những nước đặc biệt – TQ tồn tại 1
HTCT chuyên chế nhưng đeo đuổi 1 nền kinh tế thị trường có khuynh hướng liên
quan đến CN cá nhân
Một vài đặc điểm dễ
nhận thấy của chế độ dân chủ là quyền tự do được bày tỏ, tự do ngôn luận, bầu cử
thường xuyên, hệ thống toàn án minh bạch, tự do truy cập và tìm kiếm thông tin.
Ngược lại, những quyền này không tồn tại trong chế độ chuyên chế. (Ví dụ minh họa:
Người dân Hồng Kông biểu tình đòi dân chủ, hơn 500.000 người biểu tình đòi được
tự do bầu cử người lãnh đạo của họ)
Hệ thống chính trị chuyên chế.
có
4 loại cơ bản
1.
Chuyên chế cộng sản(Communist
totalitarianism) : triết lý đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua con đường
toàn trị. Triết lý này ngày nay chỉ còn tồn tại ở 1 vài nước như Việt Nam,
Cuba, Bắc Triều Tiên
2.
Chuyên chế thần quyền (Theocratic
totalitarianism ) – HTCT được hình thành bởi 1 đảng, 1 nhóm hoặc 1 cá nhân
mà trong đó triết lý lãnh đạo dựa trên niềm tin về một tôn giáo nào đó. Iran,
Saudi Arap là những ví dụ điển hình cho trường hợp này.
3.
Chuyên chế kiểu bộ lạc (Tribal totalitarianism
): Hệ thống này chỉ tồn tại ổ 1 số nước kém phát triển ở Châu Phi như Zimbabwe
và Tanzania.
Chuyên chế cánh hữu (Right-wing
totalitarianism ): HTCT này mang triết lý của chủ nghĩa cộng sản, do đó tự
do về chính trị bị cấm hoàn toàn. Tuy vậy, người dân được tự do về kinh tế. Những
nước có chính quyền quân sự điều khiển thường rơi vào dạng này. Từ năm
1980 hệ thống chính trị dạng này suy giảm
dần. Những quốc gia từng theo đuổi quan điểm chính trị này như Sing, Philipine,
Hàn Quốc, Indo hiện nay đều đã trở thành những nước có chế độ dân chủ.
Hệ thống kinh tế
Hệ
thống chính trị của 1 quốc gia có quan hệ với hệ thống kinh tế của quốc gia đó.
Ở
các nước mà mục đích cá nhân được coi trọng hơn mục đích tập thể thì các hệ thống
thị trường tự do tồn tại. Ở các nước mà mục đích tập thể chiếm ưu thế thì thị
trường bị hạn chế bởi hàng loạt các luật lệ và các DN thường thuộc quyền kiểm
soát của nhà nước.
Có
3 loại hệ thống kinh tế:
1.
Kinh tế thị trường: Tất cả các hoạt động
sản xuất đều được tư hữu hóa và việc sản xuất được quyết định bởi sự tương tác
của cung – cầu. Chính phủ khuyến khích cạnh tranh tự do và công bằng giữa các
nhà sản xuất
2.
Kinh tế tập trung: Chính phủ lập kế hoạch
sản xuất và cung ứng HH-DV, Cp quyết định sản lượng và giá cả. Tất cả các cơ sở
kinh doanh đều thuộc sở hữu nhà nước. Nền kinh tế tập trung thường kéo theo của
1 nền kinh tế yếu kém, trì trệ vì nó thiếu cạnh tranh, thiếu động cơ để kiểm
soát chi phí và hiệu quả
3. Kinh tế hỗn hợp: sự kết
hợp giữa hai hệ thống kinh tế trên. Chính phủ thường sở hữu các doanh nghiệp mà
họ cho là quan trọng với an ninh quốc gia. Pháp, Anh , Thụy Điển là những nước
theo đuổi nền kinh tế hỗn hợp
II. Hệ
thống pháp luật
Hệ
thống pháp luật của 1 quốc gia cung cấp bộ khung pháp chế các qui định và qui tắc
để điều chỉnh mối quan hệ hành vi giữa con người với con người, con người và tổ
chức đồng thời đưa ra các hình phạt cho các hành vi vi phạm qua đó khắc phục
tình trạng tranh chấp, khiếu kiện
Câu
hỏi thảo luận: Tại sao các nhà quản trị kinh doanh quốc tế phải quan tâm đến hệ
thống pháp luật của các quốc gia khác nhau?
TL: Bởi vì luật pháp của 1 quốc gia qui
định ngành nghề được phép kinh doanh, xác định cách thức giao dịch kinh doanh,
đặt ra các qui định về quyền và nghĩa vụ đối với các bên tham gia vào hoạt động
kinh doanh. Vì vậy, hệ thống luật pháp sẽ tác động đến sự hấp dẫn của 1 quốc
gia đối với đầu tư hoặc thương mại
Hệ thống pháp luật của 1 quốc gia bị ảnh
hưởng bởi hệ thống chính trị. Do đó, các quốc gia theo đuổi chế độ chuyên chế
mang tính tập thể sẽ ban hành các điều luật cấm cản sự hoạt động của các Dn tư
nhân, ngược lại các nền kinh tế thị trường( lãnh đạo bởi các tư tưởng chủ nghĩa
cá nhân) sẽ khuyến khích các DN tư nhân hoạt động
Có 3 kiểu hệ thống pháp luật:
1.
Thông luật (Common law
)- luật pháp dựa trên nền tảng truyền thống, tiền lệ, tập tục
2.
Dân luật(Civic law)
– dựa trên bộ luật được tổ chức, liệt kê chi tiết thành các điều, khoản cụ thể
Dân
luật được hơn 80 nước áp dụng, có cả Đức, Nhật, Nga
3. Thần
luật(Theocratic law )-
dựa trên những điều răn dạy, chỉ bảo của tôn giáo
Câu hỏi thảo luận: Tại
sao các công ty quốc tế phải chú ý đến hệ thống pháp luật của nước sở tại?
TL:
Lý do cơ bản đó là mỗi nước tiếp cận 1 cách khác nhau với việc ký kết hợp đồng
Hợp
đồng: là bản thỏa thuận
các điều kiện cho một sự trao đổi xảy ra trong đó thể hiện chi tiết quyền và
nghĩa vụ hai bên
Pháp
luật hợp đồng: là luật
quản lý/điều chỉnh việc thực thi hợp đồng
Hệ
thống “thông luật” có khuynh hướng liệt kê các tình huống không lường trước khi
soạn hợp đồng Hệ
thống “dân luật” soạn hợp đồng ngắn hơn vì bộ luật đã nêu khá chi tiết
Câu
hỏi: nếu nhà quản trị đến từ 1 quốc gia theo “thông luật”, đối tác đến từ quốc
gia “dân luật”, hợp đồng nên ký theo luật nào?
TL:
United Nations Convention on Contracts
for the International Sale of Goods - CIGS (công ước LHQ về mua bán hàng hóa quốc
tế - CIGS)
Hơn 70 quốc gia tham gia ký hiệp ước (có cả Hoa kỳ),
nhưng thiếu Nhật, Anh quốc
Quyền sở hữu và tham nhũng
Quyền
sở hữu (Property rights)
đề cập đến quyền lợi hợp pháp để sử dụng 1 nguồn tài nguyên và quyền sử
dụng tất cả các thu nhập có được từ tài nguyên đó
Quyền sở hữu có thể bị vi phạm
bởi:
1.
Các hành vi cá nhân (Private
action) – ăn trộm,
ăn cắp bản quyền, tống tiền
2.
Các hành vi công cộng(Public
action) - hợp pháp
(các loại thuế quá mức); bất hợp pháp (hối lộ, tham nhũng)
Mức độ tham nhũng càng cao thì càng giảm mức độ đầu tư nước ngoài, thương mại
quốc tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia
Bảng xếp hạng các nước
tham nhũng
Tham nhũng thường gắn
liền với các nước có hệ thống pháp luật yếu
Câu
hỏi thảo luận: Tại sao các DN phải nắm bắt pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ và
tham nhũng?
Làm
thế nào để “sở hữu trí tuệ” được bảo vệ?
Sở
hữu trí tuệ (Intellectual property) – sở hữu những sản phẩm
của hoạt động trí tuệ.
Sở
hữu trí tuệ được bảo vệ bởi
Bằng
sáng chế (Patents) –
quyền duy nhất được sản xuất, sử dụng, bán sáng chế trong một thời gian
nhất định
Bản
quyền/ quyền tác giả (Copyrights) – quyền hợp pháp duy nhất của tác giả, nhà soạn
nhạc, nhà biên kịch, nghệ sĩ và nhà xuất bản
để phát hành, phân phối các tác phẩm của họ
Nhãn
hiệu hàng hóa (Trademarks) – thiết kế, tên mà các nhà sản xuất
thiết kế để tạo sự khác biệt cho các sản
phẩm của họ
Việc
bảo hộ tài sản trí tuệ khác nhau giữa các nước
Tổ chức tài sản trí tuệ thế giới (World
Intellectual Property Organization)
Công ước Paris về bảo hộ tài sản công nghiệp
Paris Convention for the Protection of Industrial Property
Để tránh bị ăn cắp bản quyền, DN nên
Tránh
xa các nước mà pháp luật về bảo hộ tài sản trí tuệ còn lỏng lẻo
Kiện
cáo
Vận
động chính phủ ký kết và thực thi các hiệp ước quốc tế
Trách
nhiệm và an toàn sản phẩm
Luật
An toàn sản phẩm (Product safety laws) thiết lập hàng loạt
các tiêu chuẩn mà một sản phẩm phải tuân thủ
Trách
nhiệm sản phẩm (Product liability) qui định các công ty và cá nhân liên quan phải
chịu trách nhiệm khi sản phẩm của nó gây ra thương tật, chết, hoặc tổn hại người
sử dụng
Phụ
thuộc vào luật an toàn sản phẩm có
nghiêm khắc hay không và trách nhiệm sản phẩm có lỏng lẻo hay không mà các MNC
sẽ quyết định nơi sản xuất ở đâu
III. Môi
trường kinh tế
Những yếu tố xác định mức độ phát
triển kinh tế của 1 quốc gia
Môi
trường kinh tế, chính trị, luật pháp của 1 quốc gia các thể tác động đáng kể
lên sự phát triển kinh tế, và sự phát triển kinh tế là yếu tố hấp dẫn và là thị
trường mục tiêu đầy tiềm năng để các
công ty đầu tư
Sự
phát triển kinh tế của 1 quốc gia được đo lường bởi các chỉ số như GNI/ người. Chỉ số ngang giá sức mua
(PPP)
Điều này có ý nghĩa gì
đối với các công ty?
Nhìn
vào hệ số PPP được điều chỉnh cho GNI của Ấn năm 2007 người ta có thể kết luận
rằng Ấn độ nói chung chỉ tiêu dùng trung bình khoảng 6% HH&DV so với lượng HH&DV được tiêu dùng trung bình bởi
người dân Mỹ. Tuy nhiên, chúng ta không nên nhìn con số này để kết luận rằng Ấn
độ là thị trường thiếu tiềm năng vì nếu nghiên cứu sâu hơn, chúng ta sẽ thấy rằng
thị trường Ấn nổi lên một tầng lớp trung lưu với khoảng 100 triệu người, đây
chính là thị trường tiềm năng của các công ty quốc tế.
Như vậy, có cách nào
khác để đo lường sự phát triển kinh tế của một quốc gia không?
Nhà
kinh tế học từng đoạt giải Nobel người Ấn – Amartya Sen cho rằng sự phát triển
kinh tế nên được đo lường thông qua quá
trình nới rộng các quyền tự do thực sự mà con người đáng được hưởng.
Sen tin rằng quá trình phát triển kinh tế phải bao gồm những việc cụ thể như:
loại bỏ hoàn toàn các cản trở đối với sự tự do như: chế độ độc tài, sự nghèo
đói, sự bỏ bê của chính phủ đối với các công trình công cộng, sự dân chủ hóa
các cộng đồng chính trị để người công
dân của một quốc gia có tiếng nói trong các quyết định của chính phủ. Sen cho rằng
việc cung cấp các giải pháp chăm sóc sức khỏe cơ bản và các giải pháp nâng cao
chất lượng giáo dục của chính phủ cho người dân là các yếu tố cần thiết cho
phát triển kinh tế.
Những yếu tố xác định mức độ phát
triển kinh tế của 1 quốc gia?
Tổ
chức LHQ đã lấy ý tưởng của Sen để đưa ra chỉ số phát triển con người - Human Development
Index – viết tắt HDI, để đo lường chất lượng cuộc sống của người dân
ở các quốc gia khác nhau. HDI dựa trên các chỉ số như tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục,
thu nhập trung bình để đáp ứng các nhu cầu
cơ bản của cuộc sống trong một quốc gia
Bảng
III.1: Bảng so sánh một vài chỉ số giữa các nước:
IV. Mối quan hệ giữa kinh tế chính trị và tăng trưởng kinh tế
Đa số các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu đều cho rằng sự sáng tạo và tinh thần doanh nhân là các cỗ máy để nền kinh tế phát triển dài hạn, hai điều này chỉ có thể đến từ một nền kinh tế thị trường.
Nói cách khác, sự hiệu quả của lao động và nguồn vốn thể hiện qua sự phát triển không ngừng của sản phẩm mới và tiến trình kinh doanh. Ví dụ như sự sáng tạo không ngừng của Microsoft và Apple, hai công ty này đều được điều hành bởi các doanh nhân. Những con người này đã không chỉ thay đổi cách thức kinh doanh mà còn thay đổi cách thức sống của con người. Nếu không có nền kinh tế thị trường, chúng ta không thể có Bill Gates và Steve Jobs, không nhờ nền kinh tế thị trường, những công ty này và sức sáng tạo của chúng sẽ không bao giờ được tạo ra.
V. Mối quan hệ giữa vị trí địa lý, giáo dục và tăng trưởng kinh tế
Adam Smith là người đầu tiên cho rằng vị trí địa lý của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó. Jeffery Sachs, nhà kinh tế học ĐH Harvard đã mở rộng ý tưởng của Smith, ông cho rắng các quốc gia có vị thế địa lý thuận lợi sẽ dễ dàng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Những quốc gia có nhiều đất liền sẽ khó khăn hơn trong giao thương và phát triển thương mại với những quốc gia có nhiều diện tích bờ biển. Những quốc gia có khi hậu bất ổn, đất đai ít màu mỡ sẽ khó khăn hơn trong quá trình phát triển kinh tế.Tương tự, chúng ta xem xét đến hệ thống giáo dục. Giáo dục càng phát triển thì kinh tế càng phát triển.
V. Xu hướng thay đổi của kinh tế chính trị toàn thế giới
VIII. Làm sao nhà quản trị có thể xác định được sự hấp dẫn của 1 thị trường quốc tế?
Sự hấp dẫn được thể hiện qua 3 từ: lợi ích – chi phí – rủi ro. Thị trường càng hấp dẫn khi lợi ích trong hoạt động kinh doanh lớn hơn nhiều so với chi phí và rủi ro. Nhìn chung, lợi ích này sẽ lớn, chi phí và rủi ro sẽ nhỏ khi xâm nhập 1 quốc gia có nền chính trị phát triển ổn định, có hệ thống kinh tế thị trường với lạm phát và nợ của khu vực tư nhân thấp
Đa số các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu đều cho rằng sự sáng tạo và tinh thần doanh nhân là các cỗ máy để nền kinh tế phát triển dài hạn, hai điều này chỉ có thể đến từ một nền kinh tế thị trường.
Nói cách khác, sự hiệu quả của lao động và nguồn vốn thể hiện qua sự phát triển không ngừng của sản phẩm mới và tiến trình kinh doanh. Ví dụ như sự sáng tạo không ngừng của Microsoft và Apple, hai công ty này đều được điều hành bởi các doanh nhân. Những con người này đã không chỉ thay đổi cách thức kinh doanh mà còn thay đổi cách thức sống của con người. Nếu không có nền kinh tế thị trường, chúng ta không thể có Bill Gates và Steve Jobs, không nhờ nền kinh tế thị trường, những công ty này và sức sáng tạo của chúng sẽ không bao giờ được tạo ra.
V. Mối quan hệ giữa vị trí địa lý, giáo dục và tăng trưởng kinh tế
Adam Smith là người đầu tiên cho rằng vị trí địa lý của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó. Jeffery Sachs, nhà kinh tế học ĐH Harvard đã mở rộng ý tưởng của Smith, ông cho rắng các quốc gia có vị thế địa lý thuận lợi sẽ dễ dàng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Những quốc gia có nhiều đất liền sẽ khó khăn hơn trong giao thương và phát triển thương mại với những quốc gia có nhiều diện tích bờ biển. Những quốc gia có khi hậu bất ổn, đất đai ít màu mỡ sẽ khó khăn hơn trong quá trình phát triển kinh tế.Tương tự, chúng ta xem xét đến hệ thống giáo dục. Giáo dục càng phát triển thì kinh tế càng phát triển.
V. Xu hướng thay đổi của kinh tế chính trị toàn thế giới
Nền dân chủ sẽ càng phát triển mạnh mẽ thay thế dần nền chính trị chuyên chế. Kinh tế thị trường theo đó sẽ phát triển mạnh mẽ thay thế nền kinh tế tập trung và kinh tế hỗn hợp. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường ,kinh tế tự do không nhất thiết phải tồn tại một nền chính trị tự do. Hồng Kong, Singapore là ví dụ điển hình.
Bản chất của nền kinh tế thị trường
1. Bãi bỏ các luật lệ: bãi bỏ các luật lệ gây cản trở thị trường tự do, tư nhân hóa hoạt động kinh doanh,
2. Tư nhân hóa: tư
nhân hóa các hoạt động kinh doanh của chính phủ, nhà nước. Lý do: các
doanh nghiệp tư có động cơ để hoạt động kinh doanh hiệu quả, mang lại
lợi nhuận.
3. Hệ thống pháp luật: xây dựng bộ luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, luật hợp đồng mạnh mẽ, công cụ thi hành luật mạnh mẽ và nghiêm khắc.
VII. Hàm ý đối với quản trị viên quốc tế?
Trung
quốc và Ấn là hai thị trường đầy hấp dẫn đối với các công ty quốc tế
với dân số 1,2 tỷ và 1,1 tỷ dân. Tuy nhiên, dân số lớn không có nghĩa là
lợi nhuận mang lại lớn. Các nhà quản trị cần quan tâm đến sức mua của
người tiêu dùng ở thị trường mục tiêu.
Trong
dài hạn, nhà quản trị cần chú ý đến lợi thế của người khai phá thị
trường. Lợi ích tiềm năng ở các thị trường mới nổi rất đáng kể nhưng
cũng cần chú ý đến các rủi ro tiềm ẩn.
Môi trường chính trị, kinh tế, luật pháp luôn luôn là những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến chi phí hoạt động của các DN
Cân nhắc, đánh giá các rủi ro
Quản trị viên phải đánh giá, cân nhắc:
1. Rủi
ro về chính trị - những thay đổi, áp lực của chính trị sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến môi trường kinh doanh của một quốc gia, từ đó sẽ ảnh hưởng
đến lợi nhuận và các mục tiêu khác của doanh nghiệp. DN có nên đầu tư
vào những quốc gia đang có những bất ổn xã hội và chính trị hay không?
2. Rủi ro về kinh tế
- sự quản lý yếu kém nền kinh tế là 1 thảm kịch thực sự cho môi trường
kinh doanh của 1 quốc gia nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng
của 1 DN.
Ví dụ như cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, sự tăng trưởng và lạm phát ở VN
3. Rủi ro về luật pháp
- đề cập đến những rủi ro có thể gặp phải khi đối tác phá vỡ hợp đồng
hoặc tình trạng vi phạm bản quyền, quyền sở hữu trí tuệ bị xâm hại mà
không được pháp luật bảo vệ. Liệu thị trường mục tiêu có còn hấp dẫn hay
không nếu luật pháp quá lỏng lẻo và lạc hậu .
VIII. Làm sao nhà quản trị có thể xác định được sự hấp dẫn của 1 thị trường quốc tế?
Sự hấp dẫn được thể hiện qua 3 từ: lợi ích – chi phí – rủi ro. Thị trường càng hấp dẫn khi lợi ích trong hoạt động kinh doanh lớn hơn nhiều so với chi phí và rủi ro. Nhìn chung, lợi ích này sẽ lớn, chi phí và rủi ro sẽ nhỏ khi xâm nhập 1 quốc gia có nền chính trị phát triển ổn định, có hệ thống kinh tế thị trường với lạm phát và nợ của khu vực tư nhân thấp
Biên soạn từ:
Hill C W L (2011), International Business – Competing in the Global marketplace 8Ed, New York: Irwin Mc Graw Hill
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét